Ngọc Lam Điền – Tứ Đại Danh Ngọc Trung Quốc
Nhắc đến Trung Quốc tứ đại danh Ngọc phải kể đến Ngọc Lam Điền, Ngọc Độc Sơn, Ngọc Tụ Nham, Ngọc Hòa Điền. Mỗi loại Ngọc có vẻ đẹp riêng, đặc tính và giá trị thương mại cũng như giá trị tinh thần khác nhau. Trong bài viết hôm nay, King Jade mạn phép chia sẻ cho bạn đọc tất tần tật các thông tin về Ngọc Lam Điền. Nếu bạn có hứng thú tìm hiểu về danh Ngọc này, hãy dành thời gian để đọc bài viết dưới đây nhé!
Toc
Ngọc Lam Điền Là Gì?
Là một trong những loại Ngọc có “tuổi đời” lâu nhất hiện nay, được tìm thấy và khai phá từ thời kỳ đồ đá, cách đây hàng ngàn năm trước. Các tác phẩm chạm khắc bằng Ngọc Lam Điền bắt đầu phổ biến ở tầng lớp quý tộc và thượng lưu vào thời Xuân Thu, Tần, Hán và đạt đến đỉnh cao ở thời nhà Đường. Quốc Ấn của Tần Thủy Hoàng chính là được làm từ loại Ngọc này.
Cái tên “Ngọc Lam Điền” được đặt theo nơi sản sinh ra Ngọc – Núi Lam Điền, thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Trong các sách cổ có ghi chép về Ngọc Lam Điền như sau:
Hán Thư. Địa Lý Chí: “Lam điền, Sơn xuất mỹ ngọc, hữu hổ hầu sơn từ, Tần Hiếu Công trí dã”. Sau đó, Hậu Hán Thư. Ngoại thích truyện, Tây Kinh Phú, Quảng Nhã, Thủy Kinh Chú và hàng loạt điển tịch văn hiến, đều có đề cập đến Ngọc Lam Điền.
Các thông tin chi tiết về Ngọc Lam Điền:
- Tên Trung Quốc: 蓝田玉
- Tên tiếng Anh: Lantian Jade
- Màu sắc: Mỹ diễm hoặc tố nhã
- Quang trạch: Ánh sáng cao
- Độ trong suốt: Độ trong suốt cao
- Độ cứng: 2-6 độ
- Mật độ khoáng chất: Khoảng 2,7 g / cm3
- Phân bố: Huyện Lam Điền, trấn Ngọc Xuyên, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc
- Thành phần chủ yếu: SiO2
Đặc tính vật lý và hóa học của Ngọc Lam Điền
Mỏ ngọc cổ của Lam Điền chưa được tìm thấy. Trong khi đó công trình khai thác hiện đại của Ngọc Lam Điền thuộc khu vực thị trấn Lam Điền, huyện Tây An, cách trung tâm khoảng 35km.
Bề ngoài, nó là một loại đá cẩm thạch mịn, bao gồm caxit. Dựa theo thành phần khoáng sản, Ngọc có thể chia thành 5 loại chủ yếu. Loại thứ nhất là cẩm thạch màu trắng, loại thứ hai là đá cẩm thạch serpentine màu vàng nhạt. Tiếp đến, thứ ba là cẩm thạch serpentine màu vàng trong khi đó loại thứ tư là cẩm thạch serpentine màu táo. Cuối cùng, loại thứ năm là đá cẩm thạch serpentine tremolite.
Các thành phần hóa học chính của Ngọc Lam Điền:
Đặc điểm khoáng vật của Ngọc Lam Điền
1. Dưới kính hiển vi ánh sáng phân cực: Ngọc Lantian là loại đá cẩm thạch có vân rắn. Canxit chủ yếu có cấu trúc dạng hạt, và chondroitin chủ yếu là cấu trúc tinh thể mật và cấu trúc biến chất quy mô. Có thể thấy rằng mật mã cấu trúc của Ngọc Lam Điền được hình thành bởi đá cẩm thạch biến chất ngoằn ngoèo, và cũng có thể thấy rằng nó chứa diopside và olivin cùng với một lượng nhỏ khoáng chất như muscovit.
2. Kết quả thăm dò điện tử cho thấy thành phần hóa học của Ngọc Lam Điền rất gần với giá trị lý thuyết của canxit và antierhit, thành phần có hàm lượng cao là các oxit của Si, Mg và Ca. Còn thành phần thấp chủ yếu là oxit của sắt, oxit nhôm, tiếp theo là oxit kali, natri, mangan, titan và crom. Trong đó, hàm lượng sắt trong amiăng trắng tương đối cao.
3. Kết quả thử nghiệm nhiễu xạ tinh thể của tia X cho thấy: Màu vàng trong suốt của Ngọc bích Lantian. Thành phần khoáng chất chính của phần màu xanh lục là chất chống serpentin, và chứa một lượng nhỏ canxit, dolomit,.., tương tự như ngọc Tụ Nham Liêu Ninh.
4. Quang phổ hồng ngoại cho thấy: Thành phần khoáng chất chính của các phần màu vàng và xanh lục trong suốt của Ngọc Lantian chỉ chiếm một lượng nhỏ.
Đặc điểm của Ngọc Lam Điền
Theo dòng lịch sử của Trung Quốc, các tài liệu đề cập về Ngọc Lam Điền, có thể chia thành các nhóm Ngọc sau đây: Thúy Ngọc, Mặc Ngọc, Thải Ngọc, Hán Bạch Ngọc, Hoàng Ngọc. Tính chất của Ngọc cứng rắn, sắc thái rực rỡ, ánh sáng ôn nhuận, hoa văn tinh mịn bởi vì nó chứa silicon bị oxy hóa, nhôm, magiê, natri, canxi, đồng và các nguyên tố khác.
- Sắc điệu: Ngọc Lantian có màu ô liu nhạt đặc trưng (vàng nhạt – xanh lục), người ta cho rằng serpentin được hình thành do sự biến đổi của olivin, do đó một phần trong Ngọc có chứa màu olivin.
- Xúc cảm: Cảm giác nhẹ tay, trọng lượng riêng của Ngọc tương đối thấp (giống với trọng lượng riêng của pha lê) nên khi cầm trên tay sẽ không có cảm giác nặng tay.
- Sự bao hàm: Giống sở hữu đá xà văn chất Ngọc thạch, Lam Điền cũng có các gợn tựa như mây trắng.
- Độ bóng: Nhìn chung, độ bóng của Ngọc Lam Điền không tốt lắm, chỉ có số ít đạt đến độ bóng của pha lê. Đa phần, độ bóng của Ngọc như sáp.
Lịch sử của Ngọc Lam Điền
Văn nhân mặc khách đối Lam Điền Ngọc có rất nhiều lời ca tụng. Thời Đường, nhà thơ Lý Thương Ẩn có nói một câu miêu tả vẻ đẹp của Ngọc: “Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ. Lam Điền nhật noãn Ngọc sinh yên”, cũng đủ tạo nên mỹ danh lưu lại ngàn đời của Ngọc.
Cụ thể:
Cẩm sắt
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam Điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Thử tình khả đãi thành truy ức,
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.
Dịch nghĩa:
Bài viết liên quan:
Đàn gấm chẳng vì cớ chi mà có năm mươi dây
Mỗi dây mỗi trụ đều gợi nhớ đến thời tuổi trẻ
Trang Chu buổi sáng nằm mộng thành bươm bướm
Lòng xuân của vua Thục đế gửi vào chim Đỗ Quyên
Trăng chiếu sáng trên mặt biển xanh, châu rơi lệ
Ánh nắng ấm áp chiếu vào hạt ngọc Lam Điền sinh ra khói
Tình này đã sớm trở thành nỗi nhớ nhung về dĩ vãng
Cho đến bây giờ chỉ còn lại nỗi đau thương.
(Nguồn: thivien.net)
Chiến Quốc
Trong suốt thời kỳ Chiến Quốc, Ngọc Lantian đã được phát triển với quy mô lớn hơn và liên tục được chế tác thành các đồ vật nghi lễ bằng Ngọc. Ngọc Nguyệt thời Chiến quốc được tìm thấy ở Thiên Thủy, Cam Túc, có màu xanh xám độc đáo và kết cấu sáng tối của Ngọc Lam Điền.
Tần Quốc
Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất lục quốc, ra lệnh cho thừa tướng Lý Tư dùng Lam Điền Ngọc chế tác thành Ngọc Tỷ, trên đó có khắc: “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương” nghĩa là “Nhận mệnh trời ban, tồn tại mãi mãi. Đế vi Đế, thự thụ cự ký nhĩ chi chân”. Từ đó về sau, Ngọc Tỷ trở thành Hoàng Quyền tượng trưng, trong chế độ quân chủ chuyên chế hơn ngàn năm của Trung Hoa.
Nhà Hán
Đời nhà Hán, Lam Điền được sử dụng rất nhiều. Cụ thể, Hán Cao Tổ dùng Lam Điền gia công thành cưu trượng, ban cho đức cao vọng trọng lão thần. Đồng thời, ông cũng sử dụng danh Ngọc này trong lăng mộ của mình.
Trong bài thơ Vũ Lâm Lang của thi nhân đời nhà Hán Tân Diên Niên (辛延年) có nói về một câu về Ngọc Lam Điền: “Đầu thượng Lam Điền Ngọc. Nhĩ hậu Đại Tần châu”, thuyết minh ở triều đại nhà Hán, Lam Điền được dùng chế tác thành trang sức. Tại thành Thiên Thủy, có khai quật một kiện Ngọc bội, được chế tác từ Lam Điền, chạm khắc hình vũ nữ, cao khoảng 9.5cm, hình Ngọc có đầu to, eo thon, váy dài, giơ cánh tay nhẹ nhàng khởi vũ, nhìn uyển chuyển, tuyệt đẹp.
Ngụy Tấn
Cuối thời nhà Hán, Ngụy, Thục, Ngô Tam quốc chiến loạn, sức sản xuất bị phá hư nghiêm trọng, kéo dài đến thời kỳ Lưỡng Tấn – Nam Bắc triều hơn 300 năm hơn. Điều này khiến cho việc sản xuất Ngọc chịu ảnh hưởng lớn. Có thể nói, đây là thời kỳ lịch sử suy bại, và Ngọc Lam Điền cũng thế.
Đại Đường
Vào thời nhà Đường, xã hội phong kiến của Trung Quốc đạt đến đỉnh cao, nên việc chế tác và sử dụng Ngọc Lantian cũng đạt đến hạn mức cao nhất. Các hoàng tử, vương công quý tộc dùng Ngọc Lantian cho vương miện, triều đình lễ phục, đồ trang sức, kẹp tóc và Ngọc bội cho kiếm.
Tương truyền, Ngọc bội mà Huyền Tông Lý Long Cơ tặng cho Dương quý phi làm tín vật định tình là Ngọc Lam Điền. Bởi kết cấu và cấu trúc của Ngọc tựa như một khối băng bị chia làm đôi nên người ta đặt tên Ngọc theo danh gọi “Phù Dung” của Dương quý phi, tức “Băng Hoa Ngọc Phù Dung”. Dương quý phi đối với miếng Ngọc này quả thật yêu thích khó buông.
Thanh triều
Những năm đầu nhà Thanh, Lam Điền Ngọc một lần nữa được phát hiện.
Dân quốc《tục tu Lam Điền huyện chí 》 có ghi lại: “Phía đông của huyện có Ngọc sơn, là nơi sản sinh là thượng cổ bích Ngọc. Ngày nay, quặng hiếm. Chỉ riêng ở Tây An là có Ngọc, có nhiều màu sắc khác nhau. Ngọc rất chắc và tốt, làm thành vật trang trí, gọi là Thái Ngọc”.
Hiện đại
Vào những năm 1970, các nhà địa chất đã phát hiện ra ngọc Lantian ở huyện Lam Điền. Ngày 23 tháng 11 năm 1978, Nhân dân Nhật báo đăng: “Trong những năm gần đây, các nhà địa chất ở Thiểm Tây đã phát hiện ra một loại Ngọc cẩm thạch ở Lam Điền, tin rằng nó chính là Lam Điền Ngọc được ghi lại từ thời cổ đại”.
Vào năm 1982, Chu Nam Tuyền đã so sánh Ngọc Lam Điền của Bảo tàng Địa chất Bắc Kinh với “Hán Ngọc Bội” được khai quật ở lăng mộ của Tể Tướng thời nhà Hán. Kết quả cho thấy, chúng cực kỳ tương tự. Nên một lần nữa khẳng định, Lam Điền Ngọc sản sinh lại huyện Lam Điền.
Truyền thuyết về Ngọc Lam Điền
Huyện Lam Điền trước kia là một sơn trang nhỏ nằm ở đường núi Chung Nam. Sơn trang có một một thư sinh nghèo, tên gọi Dương Bá Ung. Hắn tuổi trẻ hiếu học, tâm địa thiện lương, đắp một cái đình nhỏ để lữ khách đi qua vào nghỉ ngơi, uống trà.
Ngày nọ, có một lão hán cõng một bao đá vụn, vì mệt ngọc mà ngã quỵ ở trước đình. Thấy vậy, Dương Bá Ung vội nâng lão hán đứng dậy, đút nước, đút cơm. Lát sau, lão hán tỉnh lại, lấy một đấu đá vụn trong bao cho Dương Bá Ung, nói rằng: “Đem đá chôn xuống đất, sẽ sinh ra Ngọc thạch, như vậy có thể cưới được hiền thê”. Không đợi Dương Bá Ung đáp tạ, lão hán biến mất. Nguyên lai, lão hán này không phải phàm nhân mà là Thái Bạch Kim Tinh.
Dương Bá Ung làm theo lời của Thái Bạch Kim Tinh, quả nhiên trong đất sinh ra một đấu Ngọc thạch. Sau đó Dương Bá Ung dùng Ngọc này làm sính lễ, cưới hiền thê, họ Từ.
Năm sau, gặp hạn, quê nhà vốn sơn nhiều, đất trồng trọt thiếu nên lương thực giảm, bá tánh chịu đói, khổ không nói nổi. Dương Bá Ung thấy vậy, cùng thê tử thương lượng, đem Ngọc thạch phân phát cho bá tánh để xuống núi đổi lương, qua được năm hạn.
Tin tức truyền ngày càng xa, quan lại nổi lòng tham, cấu kết cùng thổ phỉ, đem Ngọc cướp sạch, Dương Bá Ung cùng thôn dân không nhà để về. Thái Bạch Kim Tinh biết được Ngọc bị quan phỉ lấy đi, bèn báo mộng, nói rằng: “Trời nắng, mặt trời mọc ở Nam Sơn, khói nhẹ phiêu chỗ nào thì tàng Ngọc chỗ đó”. Từ đây, chỉ có người được báo mộng, mới biết được tìm Ngọc ở chỗ nào trên núi, quan phỉ đến chỉ có thể lấy những cục đá màu lam, Ngọc chưa thành hình.
Nguồn: baike.baidu.com